Bs. Hoàng Văn Trung
Xương sên bao gồm chỏm, cổ, ròng rọc và mỏm sau.
Os trigonum (tạm dịch là xương sên phụ, hay điểm cốt hóa phụ xương sên) là một trong những mảnh xương của cổ chân và có thể bị nhầm lẫn với gãy xương.
Nó nằm ở phía sau xương sên và được nhìn thấy trên phim X quang tư thế nghiêng. Đây là kết quả của sự thất bại của quá trình hợp nhất của củ ngoài của mỏm sau xương sên. Tần suất có mặt ở khoảng 7% người lớn.
Nó thường hình thành ở độ tuổi khoảng 7-13 tuổi và hợp nhất với xương sên ở phần lớn bệnh nhân, nếu không hợp nhất thì vẫn tồn tại dưới dạng Os trigonum.
3.1. Gãy mỏm sau xương sên. Gãy củ trong hoặc củ ngoài mỏm sau xương sên.
Gãy giật củ trong xương sên còn gọi là Cedell Fracture, liên quan đến các lực tác động quá mức vào dây chằng sên chày sau (posterior talotibial ligament) do gập mu bàn chân đột ngột.
Gãy mỏm sau xương sên hiếm gặp và thường xuyên bị bỏ sót trên hình ảnh Xquang, y văn hiện tại cho thấy đề nghị chụp CT không phải là một lựa chọn khả thi. Quan điểm chụp Xquang chếch với xoay ngoài có thể kiểm tra chính xác củ sau trong xương sên.
Bỏ sót chẩn đoán có thể dẫn đến các biến chứng về lâu dài, vì mảnh gãy xương sẽ dịch chuyển nhiều hơn, khả năng gân gấp ngón cái dài (flexor hallucis longus tendon) sẽ bị kẹt giữa các mảnh gãy. Khi được chẩn đoán sớm, xử trí gãy xương bảo tồn sẽ cho kết quả tốt.
3.2. Hội chứng chèn ép vùng cổ chân sau (Posterior ankle impingement syndrome)
Hội chứng chẹn cổ chân sau (Posterior ankle impingement syndrome ) thường gặp ở các vũ công ba lê (ballet dancers), người ném lao (javelin throwers) và cầu thủ bóng đá (football players). Tình trạng này bao gồm một nhóm bệnh lý kết quả do quá trình sự lặp đi lặp lại chấn thương cổ chân hoặc uốn cổ bàn chân. Bệnh nhân thường bị đau mạn tính phía sau cổ chân, hay tái phát và trở nên trầm trọng hơn khi uốn cong mạnh cổ bàn chân hoặc vận động đẩy, chẳng hạn như đá, rê bóng hoặc tâng bóng. Các cầu thủ bóng đá thường gặp.
Cơ chế bệnh sinh là do sự tác động giữa phần sau của xương sên và mô mềm xung quanh, giữa xương gót và xương chày trong quá trình vận động cổ bàn chân. Các tổn thương xương như os trigonum, phân mảnh củ ngoài mỏm sau xương sên, khớp giả, phì đại phần dưới sau xương chày, phì đại phần trên xương gót là các nguyên nhân phổ biến của hội chứng này. Các mô mềm kèm theo bị ảnh hưởng như bao khớp phía sau (posterior joint capsule), gân gấp ngón cái dài (flexor hallucis longus tendon), dây chằng sên mác sau (posterior talofibular ligament), dây chằng gian mắt cá (intermalleolar ligament) và dây chằng chày mác (tibiofibular ligament).
Hội chứng này thường đáp ứng với điều trị bảo tồn. Điều trị phẫu thuật có thể được chỉ định khi các biện pháp bảo tồn đã thất bại. Phẫu thuật cần cắt bỏ os trigonum, mô sẹo hoặc mỏm sau xương sên bị phì đại. Nếu phẫu thuật cắt bỏ được coi là cần thiết, phẫu thuật nội soi tiếp cận qua con đường phía sau được khuyến cáo để loại bỏ các tổn thương đụng giập của hội chứng này, phẫu thuật nội soi sẽ mang lại hiệu quả hồi phục nhanh và tránh biến chứng tối thiểu.
Trên siêu âm thường thấy phù nề mô mềm phía sau cổ chân giữa xương chày và xương gót. Thương kết hợp với tràn dịch cổ chân.
Trên Xquang thấy os trionum hoặc phân mảnh của của ngoài xương sên. Có thể có dấu hiệu tràn dịch khớp.
Trên MRI thấy giảm tín hiệu trên T1, tăng tín hiệu trên T2 và STIR os trigonum và mô xương sên kế cận, phù nề mô mềm xung quanh và thường kết hợp với tràn dịch khớp cổ chân.